Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Kon Tum
Nhiều hoạt động bảo tồn
Từ năm 2006, các tỉnh Tây Nguyên đều đã có chủ trương xây dựng các đề án, dự án, chương trình về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Cồng chiêng của tỉnh mình. Các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum đã đưa đề án về bảo tồn, phát huy văn hóa Cồng chiêng thông qua kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh và trở thành nghị quyết của tỉnh. Huy động các nguồn lực, các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và nhân dân trong tỉnh tham gia, triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể và thiết thực trong từng giai đoạn để bảo tồn, phát huy giá trị của văn hóa Cồng chiêng.
Ở tỉnh Kon Tum, từ năm 2008 đã tập trung triển khai công tác điều tra thống kê toàn bộ Cồng chiêng hiện có của sáu dân tộc bản địa sinh sống lâu đời trên địa bàn tỉnh, đồng thời tiến hành phân loại cụ thể về chủng loại và số lượng các bộ Cồng chiêng của từng dân tộc thiểu số để thực hiện việc bảo tồn và xây dựng kế hoạch phát huy giá trị trong đời sống văn hóa của đồng bào. Cũng từ năm 2006 đến nay, hàng loạt những hoạt động văn hóa, nghệ thuật dân gian có qui mô lớn mang tầm quốc gia và khu vực đã được các tỉnh Tây Nguyên tổ chức như Liên hoan văn hóa Cồng chiêng quốc tế, Liên hoan văn hóa Cồng chiêng khu vực Tây Nguyên – Miền Trung, Liên hoan văn hóa Cồng chiêng cấp tỉnh trong khu vực.v.v… Ngoài ra, còn rất nhiều các loại hình liên hoan Cồng chiêng, ngày hội văn hóa dân gian qui mô cấp huyện, cấp xã, cụm xã… do các tỉnh Tây Nguyên tổ chức ở địa phương trong suốt tám năm qua.
Tín hiệu đáng mừng
Điều đáng mừng là trong số nghệ nhân diễn tấu Cồng chiêng hiện nay, có đến 2/3 đang ở độ tuổi thanh niên và có không ít những thiếu niên tuổi 13, 14. Đã có những dàn Cồng chiêng mà “Nhạc trưởng” chỉ huy cả dàn là những thanh niên còn rất trẻ ! Họ thông thạo giai điệu tiết tấu, phương pháp diễn tấu hòa âm của cả dàn Cồng chiêng 15- 21 lá, họ điều hành cả đội tập luyện theo phương thức truyền khẩu các bài Chiêng dân gian một cách rất chững chạc và hiệu quả bên cạnh sự hỗ trợ giúp đỡ của những người già. Đấy chính là sức sống tươi trẻ và sự trường tồn của văn hóa Cồng chiêng, một khi được tạo lập đầy đủ môi trường, điều kiện phát huy và có sự trân trọng giá trị đích thực trong đời sống tinh thần của đồng bào. Thực tiễn sôi động trong sinh hoạt văn hóa Cồng chiêng trong những năm 2006-2012 cho thấy sự phong phú đa dạng của các chủng loại Cồng chiêng, của nghệ thuật diễn tấu hết sức độc đáo và sức sống của văn hóa Cồng chiêng trong đời sống văn hóa tinh thần và tâm linh của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung và Kon Tum nói riêng.
Đắm mình trong không gian văn hóa dân gian truyền thống ấy mới thấy vai trò chủ đạo không thể thiếu của văn hóa Cồng chiêng. Từ những nghệ nhân già, đầu bạc trắng đến những thiếu niên mới chỉ 13-14 tuổi song đã rất chững chạc diễn tấu những lá Cồng, lá Chiêng một cách thành thục. Có bộ thì âm điệu trầm hùng, đĩnh đạc như là một sự giới thiệu về đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ, có bộ thì âm điệu lại réo rắt, nỉ non với những giai điệu, tiết tấu hòa quyện như những lời tự sự kể về những truyền thuyết, những câu chuyện về những dòng sông, con suối, cánh rừng, mùa màng, về đất và người Tây Nguyên…hết sức trữ tình bằng ngôn ngữ âm thanh vô cùng độc đáo, chỉ riêng có ở nghệ thuật diễn tấu Cồng chiêng. Về đêm khi nghe hòa tấu Cồng chiêng ta sẽ thấy âm thanh của nó thực sự tuyệt vời, tưởng như đang được nghe một dàn nhạc giao hưởng đang trình diễn với những nghệ sỹ tài hoa bậc thầy. Tất cả như hòa làm một cùng với trời, đất, núi, rừng…bộc lộ cái “hồn”, cái “chất” mộc mạc, hoang sơ, chân chất và sâu lắng làm nên một không gian âm thanh và màu sắc, một bản hòa ca hết sức tự nhiên giữa đất trời và con người Tây Nguyên trong không gian văn hóa Cồng chiêng.
Kiểm chứng từ thực tiễn nói trên để khẳng định một kết quả rất đáng phấn khởi sau khi được công nhận là Di sản văn hóa thế giới, đó là sự chuyển biến trong nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số – chủ nhân của Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên – thể hiện khá rõ trong đời sống cộng đồng. Sinh hoạt văn hóa cồng chiêng trong nhà Rông, trong cộng đồng dân cư, trong đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào đang dần dần quay trở lại. Ở các khu dân cư, Cồng chiêng đang trở về vị trí chủ đạo vốn có của nó trong các sinh hoạt văn hóa dân gian của đồng bào. Khá nhiều thanh thiếu niên ở các làng bản vốn bị hút hồn và mê mải với các loại nhạc cụ điện tử, nay đã có chiều hướng quay lại với nhạc cụ dân tộc cổ truyền, đặc biệt là Cồng chiêng. Hiện đang xuất hiện khá nhiều “lớp” truyền dạy đánh cồng chiêng bằng nhiều hình thức từ những người lớn tuổi cho lứa thanh thiếu nhi trong các làng, bản và đã có không ít các đội cồng chiêng thiếu nhi diễn tấu khá bài bản những bài chiêng nghi lễ cổ truyền. Bởi vậy, văn hóa Cồng chiêng có “đất” sống và được bảo tồn sống trong sinh hoạt cộng đồng, phát huy được giá trị cả về vật thể và phi vật thể, vì thế nạn “chảy máu” Cồng chiêng, coi Cồng chiêng như “đồng nát” đã giảm hẳn trong thời gian vừa qua. Rất nhiều địa phương, nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số đang tìm kiếm để mua lại những bộ cồng chiêng cũ của dân tộc mình, hoặc sửa chữa lại những bộ bị hư hỏng để sử dụng trong sinh hoạt văn hóa dân gian.
Những vấn đề cần quan tâm
Không gian văn hóa Cồng chiêng bao gồm ba tiêu chí cơ bản là Tính cộng đồng, cộng cảm; sự gắn kết với thiên nhiên, với kết cấu vật chất văn hóa cư trú làng-nhà Rông-nhà sàn; Lễ thức, nghi lễ truyền thống. Tách rời 3 tiêu chí ấy, văn hóa Cồng chiêng chưa phải là chính nó !. Thực tiễn những năm qua chưa thể hiện được nhiều về vấn đề mấu chốt này, văn hóa Cồng chiêng được sân khấu hóa, môi trường diễn xướng chủ yếu nặng về trình diễn, quảng bá. Ở một góc độ nào đấy có thiên hướng lệch về mục đích, trở thành một nghệ thuật biểu diễn sân khấu, có đạo diễn, dàn dựng một cách áp đặt…bởi vậy hầu hết những bài chiêng được thể hiện ở những góc độ này chỉ là những bài chiêng bình thường, đơn giản mà đồng bào thường gọi là những bài chiêng “hội” (phục vụ sinh hoạt văn hóa đơn thuần mang tính vui chơi). Còn những bài chiêng nghi lễ với những bài bản nghiêm ngặt, được coi là quan trọng nhất gắn với yếu tố “thiêng” trong tâm linh của đồng bào, là những bài chiêng cổ, thể hiện bản sắc truyền thống của từng dân tộc, được quan niệm là phần “hồn” của Cồng chiêng, thường được diễn tấu trong các nghi lễ, lễ thức dân gian, lễ hội cổ truyền mà đồng bào gọi là chiêng “lễ” thì hầu như không được đồng bào sử dụng trong những sân khấu biểu diễn như vừa qua. Như một số nhà nghiên cứu, nhà báo đã thốt lên : Phải chăng Cồng chiêng Tây Nguyên đang hoang vắng thần linh!, ý muốn nói đến yếu tố “thiêng” của Cồng chiêng với vai trò là phương tiện để giao tiếp với thần linh theo tín ngưỡng đa thần trong đời sống tâm linh của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Nếu chỉ còn những bài bản chiêng “hội” mà không còn những bài bản chiêng “lễ”, thì văn hóa Cồng chiêng thực sựhoang vắng thần linh, và như thế thì chẳng khác gì một con người chỉ có xác mà không có phần hồn.
Bởi vậy, nên phải có cái nhìn sâu sắc hơn nữa về Không gian văn hóa Cồng chiêng từ phía các nhà quản lý văn hóa các cấp, cần phải lắng nghe ý kiến của đồng bào xem họ nói như thế nào về cách thức bảo tồn và phát huy ? Bởi họ là chủ nhân Không gian văn hóa Cồng chiêng, chỉ có họ mới thực sự biết cách và cũng chỉ có chính họ mới bảo tồn sống được văn hóa Cồng chiêng chứ không phải là hiện vật trong bảo tàng. Để từ đó có những định hướng đúng đắn, những cách làm, bước đi phù hợp và thiết thực cho mục tiêu bảo tồn, kế thừa và phát huy được giá trị của Không gian văn hóa Cồng chiêng – Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại trong những năm tới./.
Trần Vĩnh